Cấp sổ đỏ

cap-so-doxin luật sư tư vấn giúp:mảnh đất của gia đình tôi tại phú yên được cha mẹ chúng tôi mua vào năm 1955 ,là 2 đám ruộng liền kề nhau có diện tích là 5 sào ,8 thướt, 1 tất,có đầy đủ giấy tờ do chớ độ cũ cấp. năm 1956 cha mẹ tôi dùng một phần ở phía bắc,để cất nhà diện tích khoản 2 sào,phần còn lại cha mẹ tôi đào thành ao lấy đất đắp lên nền nhà chúng tôi đang ở.từ đó cho đến nay gia đình chúng tôi quản lý sử dụng,không có tranh vơi ai.

 

năm 1993 xã hòa xuân chỉ xác nhận cấp sổ đổ cho phần nền nhà của tôi diện tích là 1050m2 phần còn lại 1467m2 xã giai thích là phần đất này thuột xã quản lý?các năm 2003 khi luật đất đai mới được ban hành và đặc biệt năm 2006 khi tỉnh phú yên ban hành quyết định 315/2006,mẹ tôi nhiều lần đến xã hòa xuân tây xin được cấp sổ đỏ cho phần ao rau muốn của bà.nhưng xã hòa xuân không tiếp nhân hồ sơ vơi lí do là do từ trước tới nay bà không kê khai nên phần ao rau muốn này nay thuôt xã quan lí ?

vậy xin luật sư tư vấn giúp ;ao rau muốn của nhà tôi có được cấp sổ đỏ không? chúng tôi phải làm sao? xin cảm ơn luật sư đất đai.

 

Chào bạn !

 TLLAW.VN xin tư vấn nhà đất như sau:

Trong trường hợp bạn nêu, nếu bạn sử dụng ổn định từ trước 15/10/1993 đến nay, không lấn chiếm, tranh chấp, thì được cấp GCNQSDD theo Điều 50 Luật Đất đai. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất

“ 1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;

e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

 

2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

 

3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

 

4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

 

5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.

 

6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ.

 

7. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

 

8. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

a) Có đơn đề nghị xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

b) Được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp.”

Trường hợp bạn có các giấy tờ chứng nhân của chế độ cũ, thì một trong những cơ sở để cấp GCNQSDD quy định tịa Điều 50, LDĐ. Việc xã cho rằng gia đình bạn xâm chiếm đất công ích, theo như bạn mô tả là không có căn cứ . Khi xem xét cấp GCNQSDD, thì phải căn cừ váo quá trình sử dụng đất và thực tế sử dụng đất và quy hoạch của địa phương qua từng thời kỳ. Việc đăng ký là cơ sở cho việc cấp GCNQSDD; tuy nhiên, không phải, không đăng ký, kê khai đất đang sử dụng, thì đất này thuộc UBND xã quản lý.UBND Huyện là cấp có thẩm quyền cấp GCNQSDD. Xã có nhiệm vụ nhận hồ sơ xin cấp GCNQSDD của công dân. Nếu UBND xã không nhận hồ sơ của GĐ bạn, Bạn có quyền khiếu nại lên Chủ tịch UBND xã hoặc khởi kiện ra TA. về hành vi không nhận hồ sơ của UBND xã.